
Luận án Nghiên cứu tác động của vốn trí tuệ đến hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- Thời lượng : Đang cập nhật
- Sở hữu khóa học : Download miễn phí
- Tất cả khóa học được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại
- Hãy cân nhắc mua khóa học để ủng hộ tác giả
Tải miễn phí bản trọn bộ
Cam kết video bài giảng và tài liệu giống mô tả
Link tốc độ cao và an toàn
Link trực tiếp từ google drive đã được quét virus
Học Online Tiện Lợi
Học online trên drive bằng điện thoại hoặc máy tính
Vốn cấu trúc bao gồm cơ sở dữ liệu, chiến lược, quy trình kinh doanh, hệ
thống kiểm soát, hệ thống thông tin, cơ cấu tổ chức, và văn hóa DN (Hsu &
Sabherwal, 2012; Zhang và cộng sự, 2021; Roos & Roos, 1997) để hỗ trợ nhân viên
đạt được mục tiêu kinh doanh (Roos, Roos, & Dragonetti, 2008; Rahimi và cộng sự,
2017) và giúp đảm bảo hiệu quả kinh doanh và năng suất nhân viên (Bontis và cộng
sự, 2007; Bollen và cộng sự, 2005). Vốn cấu trúc do người lao động tạo ra hoặc có thể
được mua ở nơi khác. Một số vốn cấu trúc có thể được bảo hộ hợp pháp và trở thành
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và do đó thuộc sở hữu của DN như là thương hiệu,
bằng sáng chế, bản quyền, tên thương mại, quyền hoạt động, bí mật kinh doanh, công
nghệ, đổi mới, tài sản trí tuệ được tạo ra bởi bộ phận nghiên cứu và phát triển (Chen,
Cheng, & Hwang, 2005; Nimtrakoon, 2015; Allameh & Khalilakbar, 2018; Xu &
Wang, 2018). Vì vậy, Choong (2008) và Nadeem, Gan, & Nguyen (2018) cũng khẳng
định rằng vốn cấu trúc là chính là động lực của sự đổi mới. Vốn cấu trúc được chuyển
đổi, tái tạo và chia sẻ trong một khoảng thời gian dài, và cũng có thể được sử dụng bởi
các nhân viên khác nhau bất kể thời gian với mục đích tạo ra giá trị. Vốn cấu trúc cũng
bao gồm khía cạnh văn hóa, nơi mà sự kết hợp của các giá trị, chuẩn mực và hành vi
được thực hành và chia sẻ bởi đa số nhân viên.
Vốn quan hệ liên quan đến việc quản lý và điều tiết các mối quan hệ bên ngoài
của DN, bao gồm mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh, đối tác, cổ đông, khách hàng,
chính phủ, các kênh phân phối và nhà cung cấp, các bên liên quan (Sveiby, 1997a);
(Meles và cộng sự, 2016; Tsui và cộng sự, 2014; Sharabati, Jawad, & Bontis, 2010).
Các học giả đồng thuận rằng vốn quan hệ tạo ra được tiềm lực giá trị gia tăng trong
hiện tại cũng như tương lai, điển hình như (Chen và cộng sự, 2005, Nimtrakoon, 2015,
Allameh & Khalilakbar, 2018, Xu & Wang, 2018). Theo Sveiby (2007), vốn quan hệ
khó quản lý hơn so với vốn con người và vốn cấu trúc vì nó hướng ra bên ngoài nhiều
hơn. Trong đó, mối quan hệ với khách hàng có thể được thừa nhận là mối quan hệ
quan trọng nhất (Bontis, 2001; Bozbura, 2004; Kim và cộng sự, 2012) . Nhất quán với
lập luận này, trong một số nghiên cứu, bao gồm cả nghiên cứu này, nên sử dụng vốn
quan hệ như một trong ba thành phần của VTT. Ngoài ra còn có các nghiên cứu khác
như nghiên cứu của Edvinsson & Malone(1997) và Thien (2019) đã phân loại VTT là
tổng vốn con người và vốn cấu trúc, trong đó vốn quan hệ được kết hợp như một thành
phần cụ thể thuộc về vốn cấu trúc.
Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước xem xét VTT bao gồm ba thành
phần là vốn nhân lực, vốn cấu trúc và vốn quan hệ. Từ đó thiết lập mô hình nghiên cứu
xem xét ảnh hưởng của CBTT VTT và hiệu quả VTT đến HQTC của DN.