Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the acf domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /home/baocaosu/domains/baocaosugiatot.com/public_html/wp-includes/functions.php on line 6121
Luận án Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng và một số phương pháp xử trí đặt nội khí quản khó trên bệnh nhân có bệnh đường thở trong phẫu thuật tai mũi họng – Tải miễn phí

Luận án Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng và một số phương pháp xử trí đặt nội khí quản khó trên bệnh nhân có bệnh đường thở trong phẫu thuật tai mũi họng

  • Số trang : 178 trang
  • Lượt tải : 500

Các file đính kèm theo tài liệu này

  • luan_an_gioi_han_xet_xu_so_tham_trong_to_tung_hinh_su_viet_n.pdf
  • Tất cả luận văn được sưu tầm từ nhiều nguồn, chúng tôi không chịu trách nhiệm bản quyền nếu bạn sử dụng vào mục đích thương mại

NHẬP MÃ XÁC NHẬN ĐỂ TẢI LUẬN VĂN NÀY

Nếu bạn thấy thông báo hết nhiệm vụ vui lòng tải lại trang

Đặt ống NKQ khó là vấn đề lớn trong kiểm soát đường thở, tỷ lệ đặt NKQ khó tùy theo
tác giả thay đổi từ 0,04% – 2,3% nhưng có thể tăng tới 40% trên bệnh nhân có bệnh lý
đường thở [1],[2],[3],[4]. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng hơn 85% trường hợp thất bại kiểm
soát đường thở gây nên tổn thương ở não hoặc tử vong, khoảng 30-50% tử vong trong gây
mê là do thất bại kiểm soát đường thở [1],[2]. Trong phẫu thuật các bệnh lý đường thở đặc
biệt là các khối u vùng họng, thanh quản, ngoài các tiêu chuẩn thông khí và đặt ống khó
chung thì chính khối u đó cũng là một yếu tố khó, trực tiếp gây cản trở thông khí, choán
chỗ che khuất tầm quan sát, đè đẩy gây thay đổi vị trí giải phẫu đường thở. Vì vậy, cần
phải tìm được những yếu tố đặc thù để tiên lượng khả năng kiểm soát đường thở. Các khối
u vùng họng, thanh quản có tỷ lệ mắc mới trên toàn cầu là 500000 trường hợp /năm và
chiếm tỷ lệ 6%, tử vong chiếm 270000 trường hợp /năm (tỷ lệ 5% các loại ung thư) [5]. Ở
Việt Nam có khoảng 15000 ca mới mắc hàng năm chiếm khoảng 10% tỷ lệ ung thư nói
chung [6]. Đánh giá trước mổ là bước hết sức cần thiết để bác sĩ gây mê tiên lượng được
các trường hợp khó và lựa chọn các phương pháp xử trí, làm giảm được các tai biến có thể
xảy ra. Trước một bệnh nhân phải phẫu thuật các bệnh lý đường thở, trách nhiệm cơ bản
của bác sĩ gây mê phải tiên lượng được các tình huống khó, phải duy trì trao đổi khí cho
bệnh nhân một cách phù hợp, đó là một thách thức lớn đối với bác sĩ gây mê hồi sức trong
lĩnh vực này. Trong các nghiên cứu trước đây, chưa có phương pháp nào đáp ứng thỏa mãn
được đầy đủ các yêu cầu kiểm soát đường thở trên các bệnh nhân có bệnh lý đường thở. Sử
dụng phương pháp nội soi mềm để đặt ống NKQ được ứng dụng nhiều trên bệnh nhân có
khít hàm và hạn chế di động đầu cổ, nhưng chưa được nghiên cứu nhiều trên những bệnh
nhân có bệnh lý trên đường thở, đa số chỉ là nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ, lẻ, báo cáo trường
hợp, có một số thành công và những hạn chế nhất định [7],[8],[9],[10]. Đặt ống NKQ bằng
nội soi bán cứng SensaScope được ứng dụng từ năm 2010 trên thế giới, nhưng đa số
nghiên cứu trên bệnh nhân phẫu thuật chung, có một vài nghiên cứu báo cáo trường hợp xử
trí bệnh nhân đặt ống NKQ khó bằng phương pháp này trong phẫu thuật Tai mũi họng thấy
cải thiện tốt sự quan sát thanh môn, do đó dễ dàng đặt được ống NKQ [11],[12],[13],[14].
Chưa có nghiên cứu tổng kết nào về nội soi mềm hoặc nội soi bán cứng SensaScope để xử
trí đặt ống NKQ trên bệnh nhân có bệnh lý đường thở. Ở Việt Nam, chúng tôi cũng chưa
thấy có nghiên cứu nào đầy đủ về tiên lượng đường thở khó cũng như các phương pháp xử
trí đặt ống NKQ khó trên các bệnh nhân có bệnh lý trên đường thở.